Tuy nhiên theo đánh giá của chuyên gia, mặt bằng lãi suất sẽ chịu nhiều sức ép, dư địa để các ngân hàng điều chỉnh giảm trong thời gian sắp tới là không còn nhiều. Thời báo Ngân hàng đã có cuộc trao đổi với TS. Lê Duy Bình – Giám đốc Economica Việt Nam, về vấn đề này.
Ông đánh giá như thế nào về tác động giảm lãi suất đến tăng trưởng tín dụng trong những tháng đầu năm nay?
Theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống trong 3 tháng đầu năm 2025 đạt 3,93%, cao hơn đáng kể so với mức 1,42% của cùng kỳ năm trước.

TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam
Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng đã chủ động, tích cực giảm lãi suất, điều này đã kéo theo nhu cầu vay vốn gia tăng. Đây là một diễn biến tất yếu trong điều kiện thị trường mặt bằng lãi suất thấp. Điều này không chỉ góp phần kích thích tiêu dùng trong nước, mà còn củng cố nhiều xung lực khác của nền kinh tế như nhu cầu gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ trong nước…
Tổng hòa các yếu tố trên đã thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến khích tiêu dùng nội địa và tạo lực đẩy tích cực cho các thị trường như bất động sản dần khởi sắc trở lại.
Có thể khẳng định, cầu tín dụng gia tăng trong bối cảnh mặt bằng lãi suất giảm đã tạo ra động lực quan trọng, góp phần đưa tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế vượt mốc 16 triệu tỷ đồng. Chính sách giảm lãi suất vì vậy không chỉ kích thích nhu cầu vay vốn mà còn đóng vai trò then chốt trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thời gian qua.
Hiện cơ quan quản lý cũng như nhiều chuyên gia cho rằng dư địa giảm lãi suất không còn. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này?
Tôi cho rằng dư địa giảm lãi suất không còn và có ba yếu tố chính chứng minh điều này.
Thứ nhất, áp lực lạm phát hiện nay rất lớn. Theo Cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân quý I/2025 đã tăng 3,22% so với cùng kỳ. Điều này làm thu hẹp dư địa giảm lãi suất.
Thứ hai, việc huy động vốn của các ngân hàng đang gặp thách thức. Gần đây, các ngân hàng đã giảm lãi suất huy động khá nhiều. Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động quá thấp sẽ không đủ hấp dẫn người gửi tiền, dẫn đến thiếu hụt nguồn vốn cho vay và đầu tư.
Thứ ba, áp lực lạm phát từ bên ngoài cũng đáng lo ngại. Trong bối cảnh căng thẳng thương mại toàn cầu gia tăng, lạm phát tại các nền kinh tế lớn có thể đẩy giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tăng, dẫn đến nguy cơ “nhập khẩu” lạm phát. Đồng thời, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chưa có dấu hiệu giảm lãi suất, khiến áp lực lên tỷ giá đồng Việt Nam tăng.
Tất cả yếu tố trên sẽ làm hạn chế khả năng giảm lãi suất trong nước, dù chúng ta rất mong muốn điều đó để kích thích kinh tế.
6 tháng cuối năm, nhu cầu vốn thường tăng cao hơn những tháng đầu năm. Liệu các ngân hàng có phải tăng lãi suất huy động để hút vốn đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, thưa ông?
Cũng có thể. Nhưng tôi nghĩ nếu có sẽ chủ yếu từ các ngân hàng TMCP quy mô nhỏ tăng lãi suất để hút vốn. Thông thường, các ngân hàng TMCP nhỏ gặp nhiều khó khăn hơn trong huy động vốn so với ngân hàng lớn vì năng lực và uy tín không bằng nên thường phải tăng lãi suất để thu hút tiền gửi từ dân cư và doanh nghiệp, đảm bảo thanh khoản và nguồn vốn cho vay.

Dư địa giảm lãi suất không còn
Theo ông, để đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16% trong năm nay, bên cạnh việc giữ ổn định mặt bằng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước cần triển khai thêm những giải pháp gì?
Theo tôi, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục thận trọng nhưng linh hoạt, chủ động trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm định hướng các ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng hiệu quả, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, cần theo dõi sát các chỉ số kinh tế vĩ mô như tỷ giá hối đoái, lạm phát để kịp thời điều chỉnh chính sách, bảo đảm mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo định hướng của Quốc hội và Chính phủ.
Ngân hàng Nhà nước cũng cần chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục triển khai các chương trình tín dụng trọng điểm, ưu tiên vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các ngành động lực đóng góp tích cực cho tăng trưởng. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt động, tiết giảm chi phí, qua đó tạo dư địa giảm lãi suất cho vay góp phần cải thiện khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp và người dân.
Ngoài ra, trong điều hành chính sách, Ngân hàng Nhà nước cần cân đối hợp lý giữa mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và hỗ trợ tăng trưởng. Việc định hướng mặt bằng lãi suất cần hài hòa lợi ích giữa người gửi tiền và người vay vốn. Đây là thách thức không nhỏ trong bối cảnh lãi suất toàn cầu và áp lực tỷ giá vẫn còn hiện hữu. Nếu cần thiết, cơ quan điều hành có thể xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tín dụng phù hợp với diễn biến thực tế để hỗ trợ nền kinh tế kịp thời, hiệu quả hơn.
Song về tổng thể, để nâng cao khả năng cung ứng vốn hiệu quả cho nền kinh tế, bên cạnh nỗ lực từ phía hệ thống ngân hàng cần có sự chung tay từ thị trường vốn như thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, các quỹ đầu tư và các nguồn vốn khác.
Xin cảm ơn ông!