
Ông Nguyễn Trọng Khang, founder – chủ tịch MK Group, đơn vị đã cung cấp hàng chục triệu thẻ CCCD gắn chip ở Việt Nam kể rằng ông và các cộng sự đã mất 18 năm chuẩn bị công nghệ lõi, bỏ ra 5 năm và số tiền cả triệu euro thuê các lab châu Âu hack thử, từ đó tạo ra những chiếc CCCD gắn chip.
Bài học từ chặng đường không hề bằng phẳng đó được ông tiếp tục ứng dụng vào các dự án sau này, như AI camera, đầu tư vào chip ảnh nhiệt, sáng kiến OneID for ASEAN hay những ý tưởng đầy tham vọng khác về AI, bán dẫn, công nghiệp quốc phòng… Vị doanh nhân tin rằng, nếu đầu tư đúng cách, người Việt hoàn toàn có thể tạo ra những sản phẩm công nghệ có chỗ đứng trên thế giới.

Trương Thu Hường: Nhắc đến chiếc thẻ CCCD gắn chip do công ty ông sản xuất, nghe nói, nó thuộc top 5 chiếc thẻ tốt nhất thế giới và là loại tốt nhất khu vực ASEAN… Điều gì đã giúp CCCD Việt Nam có một thứ hạng “không phải dạng vừa” như thế?
Nguyễn Trọng Khang: Khi làm CCCD gắn chip, thế giới dùng password, còn Việt Nam dùng sinh trắc học. Chúng tôi có công nghệ matching trên thẻ. Khi quẹt qua điện thoại có NFC, dữ liệu trong CCCD được tiếp cận dễ dàng nhờ sinh trắc học mà không cần password và mạng internet. Cái đó sẽ giúp CCCD trở thành chìa khóa mở được rất nhiều giao dịch online, nâng cao bảo mật, không phụ thuộc vào thiết bị hay bên thứ ba mà hoàn toàn do người dùng chủ động.
Tất cả điều này là sáng tạo của Việt Nam. Những ai bây giờ muốn dùng đúng cách đó thì phải trả tiền bản quyền cho chúng tôi. Đây là vấn đề quan trọng với doanh nghiệp công nghệ, chứng tỏ dư địa và tiềm năng phát triển.

Trương Thu Hường: Mất bao lâu để các ông nghiên cứu được công nghệ như vậy?
Nguyễn Trọng Khang: Chúng tôi chuẩn bị 18 năm để làm chủ công nghệ lõi bằng cách thu hút rất nhiều người nước ngoài giỏi ở mảng đó, kết hợp đầu tư và M&A các doanh nghiệp Việt. Tôi nhận ra, nhiều startup công nghệ trong nước giống như những mảnh ghép rời rạc vì chưa có đủ trải nghiệm.
Sau này, khi quyết tâm làm CCCD theo chuẩn ICAO, có người gợi ý tôi nên bỏ ra 300.000 USD (khoảng 7,8 tỷ đồng) để mua tool kiểm tra con chip của thẻ đã theo đúng chuẩn này hay chưa. Chúng tôi cứ làm, lập trình rồi test qua tool liên tục như thế rất nhiều năm mới ra được thành phẩm.
Sau khi thành công, tôi đưa CCCD tới lab ở châu Âu, bỏ cả triệu euro thuê họ hack. Các hacker mũ trắng tấn công bằng phần mềm và bằng cả phần cứng. Con chip của chúng tôi nhỏ xíu như thế (tính bằng nm, tức 1 phần tỷ mét) mà họ còn cắt ra từng layer (cắt thành từng lớp khác nhau để tấn công và lấy dữ liệu). Mức độ hack kinh khủng như thế thì ban đầu mới phát hiện ra lỗi. Chúng tôi phải vá bằng phần mềm và làm việc với hãng cung cấp chip.
Đó là một trải nghiệm cam go và đầy thách thức. Tôi nghĩ mình cũng hơi romance (cười)… bởi vì đó là chặng đường khốc liệt. Phải mất 5 năm, trải qua bao lần đau tim như thế thì chiếc thẻ CCCD gắn chip mới thành hình.

Từ một chiếc thẻ CCCD tốt như vậy, nghe nói các ông đã phối hợp với Bộ công an triển khai mô hình nhận diện sinh trắc học ở sân bay Nội Bài, Hà Nội hồi cuối tháng 4?
Nguyễn Trọng Khang: Đúng thế. Chúng tôi đã phối hợp với Bộ Công an, triển khai mô hình mới sử dụng VNeID, giúp khách hàng làm thủ tục bay nhanh chóng, tiện lợi hơn. Mô hình này chính thức triển khai hôm 28/4. Theo đó, hành khách có thể check-in trực tuyến, di chuyển thẳng ra cửa kiểm tra an ninh, đến làn sinh trắc học và thực hiện nhận diện khuôn mặt trên màn hình camera.
Xác thực trên VNeID sẽ thay thế cho việc xuất trình giấy tờ. Chuyện này rất an toàn, bảo mật vì hệ thống chỉ lưu truyền điểm ảnh, nên hacker gần như không thể lấy dữ liệu. Nhờ việc rà soát tự động, sân bay sẽ giảm nhân sự và tránh ùn tắc. Đây là chuyện mà Singapore đã triển khai thành công.
Nhưng chuyện này lại liên quan đến VNeID chứ không phải dữ liệu trực tiếp trên thẻ CCCD?
Nguyễn Trọng Khang: Có một chuyện thú vị là chúng tôi đã sử dụng công nghệ phân tán kết hợp với cơ sở dữ liệu (CSDL) tập trung khi làm CCCD. Về lý thuyết, nếu hệ thống CSDL tập trung bị hack có thể gây rò rỉ, mất toàn bộ. Vì thế, người Đức cực đoan tới mức họ không tin vào CSDL tập trung nên dữ liệu chỉ có trên CCCD. Trong khi đó, Ấn Độ lại chọn cách đẩy hết thông tin lên CSDL quốc gia và đầu tư của họ không nằm ở thẻ CCCD mà dùng sinh trắc học, cứ ra đường với gương mặt và vân tay là đủ để định danh. Nhưng chi phí để xây dựng hạ tầng cơ sở và đặc biệt là vấn đề bảo mật cho chuyện đó rất đắt nếu muốn làm bài bản.

Việt Nam đi sau nên đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm. Chúng ta có những cái tập trung nhưng có những cái phân tán. Khi phân tán thì quyền quyết định bảo mật là do người dùng. Chiếc thẻ CCCD giúp định danh rất an toàn mà không cần đầu tư hạ tầng hàng loạt.
Một điều nữa là thế giới chưa bắt đúng sóng công nghệ khi triển khai CCCD, nên người ta làm thẻ rồi phải mua máy đọc thẻ. Nhưng cách đây 5-10 năm, smartphone đã thay đổi cuộc chơi. Như cách của chúng tôi làm, điện thoại NFC đã trở thành đầu đọc thẻ tiện lợi, giúp giải quyết 3 vấn đề quyết định sự thành công trong giao dịch điện tử, đó là giá rẻ, dễ tiếp cận, và luôn sẵn có.
Như vậy, thị trường cho những chiếc CCCD như của MK Group sản xuất vẫn còn rất rộng, kể cả các nước như Indonesia, Thái Lan, Singapore… vẫn rất cần.

Việc sở hữu một chiếc thẻ đủ tốt mà các nước trong khu vực vẫn đang cần có phải là lý do thúc đẩy ông đưa ra sáng kiến OneID for ASEAN từng gây sốt tại chuỗi sự kiện ASEAN Future Forum – AFF 2025 hồi đầu năm nay?
Nguyễn Trọng Khang : Thực ra đó là một ý tưởng không mới. Hồi năm 2023, tại phiên họp thứ 21 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng bí thư Tô Lâm, khi đó còn đang là Bộ trưởng Bộ Công an đã nêu vấn đề các nước ASEAN đang phấn đấu sẽ thống nhất các loại giấy tờ. Từ đó, công dân Việt Nam có thể đi lại trong khối bằng CCCD.

Một số hình ảnh ông Khang giới thiệu với Tổng bí thư Tô Lâm các thiết bị, khí tài quân sự do công ty MK Group sản xuất.
Hiện nay, châu Âu đã áp dụng việc này. Ý tưởng của tôi cũng tương tự. Sáng kiến này sẽ giúp công dân di chuyển trong khối thuận lợi hơn, tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng, thương mại điện tử và đăng ký kinh doanh trên toàn ASEAN mà không cần quá nhiều thủ tục giấy tờ. Công dân có thể sử dụng các dịch vụ y tế, giáo dục và dịch vụ chính phủ ở bất kỳ quốc gia ASEAN nào. Nó còn giúp xác thực an toàn cho các dịch vụ trực tuyến, thanh toán và giao dịch tài chính, giảm gian lận danh tính và tăng cường hợp tác an ninh…
Đông Nam Á hiện có hơn 460 triệu khách hàng kỹ thuật số, được các chuyên gia dự đoán sẽ là khu vực có nền kinh tế số vượt quá 300 tỷ USD ngay trong năm 2025, và lên tới hơn 1.000 tỷ USD vào cuối thập kỷ này. Tôi cho rằng, ASEAN cần nỗ lực đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số của khu vực. Đề xuất của tôi cũng chính là đích hướng tới của tất cả các khối liên kết trên thế giới.
Sắp tới, Bộ Công an Việt Nam sẽ chuyển giao kỹ thuật triển khai CCCD gắn chip ở Lào. Đây chính là việc nước ta đang xuất khẩu chuyển đổi số, chuyển đổi công nghệ theo Nghị quyết 57. MK Group sẽ đi cùng Bộ Công an với vai trò nhà thầu.

Như vậy, mô hình này hoàn toàn có triển vọng nhân rộng trên toàn khu vực. Indonesia hay Philippines… đang gặp phải bài toán giống như Việt Nam trước khi chuyển sang CCCD gắn chip. Singapore định danh bằng 3 yếu tố và không có con chip trên CCCD. Chính việc đó khiến hệ thống quản lý của họ cồng kềnh, chi phí đắt đỏ. Xu thế bây giờ, các nước đều đang tinh gọn bộ máy. Ngay cả Singapore cũng đang cân nhắc dùng mô hình giống Việt Nam. Mặc dù quy mô dân số Singapore rất nhỏ, trình độ phát triển cao… nhưng vẫn có những người nghèo không đủ điều kiện dùng smartphone để xác thực qua hệ thống giống như VNeID.
Tính trong khu vực, với điều kiện của Việt Nam hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể dẫn dắt các nước khác trong vấn đề CCCD gắn chip. Đấy cũng là một cách thể hiện vị thế của nước ta với việc dẫn dắt ASEAN phát triển trong thời kỳ mới.
Sáng kiến này còn có một hàm ý quan trọng nữa, đó là chữ ký số. Hiện nay nước ta chưa dùng đến chữ ký số dù ứng dụng đó đã được trang bị trong CCCD gắn chip. Vì vậy mới có chuyện, hai người mua nhà của nhau chưa thể giao dịch online hoàn toàn. Họ vẫn phải mất rất nhiều tiền đi công chứng, ký tá, lăn tay các loại giấy tờ,
Một khi chữ ký số được triển khai, giao dịch online sẽ cực kỳ thuận tiện và cơ cấu bộ máy hành chính có thể còn giảm mạnh hơn hiện nay rất nhiều. Nếu việc này áp dụng trên toàn ASEAN thì thuận lợi vô cùng lớn.

Đối với CCCD, các ông đã tự làm mọi thứ ngoại trừ con chip. Trong tương lai, MK Group có dự kiến sẽ tự chủ nốt phần việc này?
Nguyễn Trọng Khang : Tôi sẽ làm chuyện đó nếu có thị trường đủ rộng và duy trì độ phủ trong lâu dài. Hiện nay, mỗi năm, chúng tôi sản xuất khoảng vài chục triệu thẻ CCCD. Nếu con số đạt hơn 100 triệu thẻ thì công ty sẽ có đủ “lực” đề đầu tư cho chuyện này.
Tức là các ông đã sẵn sàng và chỉ chờ thời điểm phù hợp để bước chân vào con đường làm chip bán dẫn đang rất “hot” trên thế giới?
Ông Nguyễn Trọng Khang: Chúng tôi vẫn luôn theo đuổi chiến lược làm cái gì thị trường cần, nhưng trong tầm khả năng. Trong ngành bán dẫn, chúng tôi đang đầu tư vào Infrasen – một công ty sản xuất chip ảnh nhiệt. Đây là sản phẩm ứng dụng rộng, liên quan đến cả quân sự, dân sự nên khi xuất khẩu thì cần xin giấy phép. Đó là thị trường ngách khá khó. Những con chip có độ nhạy càng cao sẽ càng đắt, thậm chí có thể lên tới vài nghìn USD/ chip. Chúng tôi có thể sản xuất với giá rẻ hơn so với doanh nghiệp nước ngoài và tin là MK Group có cơ hội.
Không chỉ dừng lại ở dân sự và thương mại, chúng tôi còn đang là một trong những doanh nghiệp tư nhân đầu tiên của Việt Nam tham gia lĩnh vực công nghiệp quốc phòng công nghệ cao, một mảng đầy thách thức nhưng mang ý nghĩa chiến lược quốc gia. MK Group đang đầu tư nghiêm túc vào R&D để không chỉ sản xuất các thiết bị quốc phòng có điều khiển và độ chính xác cao mà còn mang tính lưỡng dụng, vừa phục vụ an ninh – quốc phòng, vừa có thể ứng dụng linh hoạt cho dân sự, như hệ thống camera AI an ninh, chip ảnh nhiệt, hay các nền tảng định danh và xác thực sinh trắc học kiểm soát vào ra tại các cửa khẩu, nhà ga/bến cảng…
Nhưng nếu nói riêng về bán dẫn , theo ông, chúng ta sẽ lấy gì để tận dụng cơ hội vươn lên, mà như nhiều người vẫn nói đó là cơ hội “4.000 năm” của Việt Nam?
Ông Nguyễn Trọng Khang : Bất cứ doanh nghiệp nào ở Việt Nam bây giờ mới đầu tư làm chip thì cho dù có bỏ ra cả tỷ USD vẫn có thể thất bại. Tôi cho rằng, nếu chúng ta không có mục tiêu nào khác ngoài cạnh tranh chip ra toàn cầu là sai lầm. Tôi từng sang Đài Loan, gặp những công ty mà 10 năm trước ngang ngửa với TSMC nhưng giờ đang sắp chết tới nơi. Ngay cả Intel cũng gặp khó khăn. Đây là cuộc chơi loại bỏ lẫn nhau vô cùng khốc liệt vì vòng đời của sản phẩm cực kỳ ngắn. Những kẻ mạnh trong ngành muốn bật lên như hôm nay, họ đã chuẩn bị ít nhất 30 năm.

MK Group đã làm chủ nhiều công nghệ lõi, công nghệ chiến lược trong các lĩnh vực: Smart digital security (thẻ thông minh, tài liệu bảo an, xác thực bảo mật), camera AI và công nghiệp quốc phòng.
Tuy nhiên, có một điểm sáng là một số doanh nghiệp Nhật, Hàn đã đầu tư vào Việt Nam để làm bán dẫn và sau 5-7 năm, các công ty của họ ở khu Hoà Lạc, Thái Nguyên… vận hành rất tốt với phần lớn nhân sự là người Việt. Có nghĩa bước đầu, chúng ta sẽ làm những việc như gia công đóng gói con chip. Đó cũng là cơ hội cho Việt Nam.
Chúng ta có thể không cần một TSMC, nhưng khi các tập đoàn công nghệ sang đây thì có thể đặt vấn đề luôn là nếu họ cần sản lượng chip, chúng ta sẽ cùng với họ làm chuyện đó và gắn người Việt vào hệ thống để học hỏi. Nước ta đông dân, có ưu thế về sản xuất quy mô lớn nhưng hầu hết chưa có kinh nghiệm, trải nghiệm. Vì thế, bây giờ vấn đề đào tạo là then chốt.
Chúng ta có thể không chạy đua vào những công nghệ quá sâu như 2-3nm đang rất đắt đỏ mà có thể tiến vào những cái 14-28nm hoặc thậm chí 40nm, miễn sao sản phẩm đó có thể sản xuất được với giá rẻ, cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu thế giới.
Nhưng kể cả khi đi vào thị trường ngách, cũng chẳng có gì đảm bảo chắc chắn sẽ thành công?
Nguyễn Trọng Khang: Tôi nghĩ cái gì cũng có rủi ro. Ví dụ, MK Group từng mở công ty Vinapay về thanh toán trực tuyến năm 2007. Đó là chuyện nhìn thấy cơ hội, dự đoán được thị trường nhưng lại bắt đầu quá sớm và sau đó phải đóng lại, lỗ 3 triệu USD. Còn với ngành AI, bán dẫn, chúng tôi vẫn mạo hiểm nhưng thận trọng hơn, bây giờ gặp khách có thể làm được ngay. Tất nhiên với những gì rủi ro cao thì lợi nhuận cũng tốt. Quan trọng là tâm thế dám chơi, dám chịu.

Đảng đã ra NQ57, mở đường cho công nghệ phát triển. Nhưng theo ông, trong ngành AI, bán dẫn, để có cơ hội “đủ rẻ” cho các công ty như MK Group, Nhà nước cần có sáng kiến gì đột phá?
Nguyễn Trọng Khang: MK Group đang đầu tư làm AI Camera nên cũng rất cần hạ tầng đủ rẻ để chạy mô hình AI. Trong tương lai, bất kỳ thiết bị công nghệ nào cũng đều cần AI và bán dẫn. Tôi rất kỳ vọng vào chuyện Nhà nước sẽ hỗ trợ.
Theo tôi, Nhà nước có thể bỏ ra khoảng 300 triệu USD, giao cho ĐH Bách khoa Hà Nội xây dựng hạ tầng AI dùng chung cho cả nước. Điểm cốt lõi, đây không phải là mô hình thương mại cho thuê kiếm lời, bởi chi phí mua chip AI hiện nay rất cao, và việc huấn luyện AI đòi hỏi năng lượng cực lớn.
Mô hình này nên được xem như khoản “đầu tư mang tính nền tảng” – bắt buộc phải làm nhưng không kỳ vọng sinh lời trực tiếp, nhằm thúc đẩy toàn bộ hệ sinh thái AI tại Việt Nam. Hơn nữa, khi nước ta có hạ tầng đủ dùng, sẽ giúp tránh được chuyện các cá nhân/ tổ chức trong nước phải mang dữ liệu ra nước ngoài chạy mô hình, dẫn đến rò rỉ, mất an toàn.
Trung Quốc đang làm cách này rất hiệu quả. Chính phủ nước họ đầu tư nhiều trung tâm AI quy mô lớn, do các nhà khoa học hàng đầu phụ trách. Các công ty có ý tưởng sẽ mang mô hình đến đó để huấn luyện, sau đó tiếp tục đưa dữ liệu vào “AI Factory” để huấn luyện sâu hơn. Điểm mấu chốt là: khi đã có “máy lớn”, thì nhất thiết phải có “người giỏi”, để dù quy mô hạ tầng không quá lớn, vẫn đạt hiệu suất cao.
Mô hình tương tự hoàn toàn có thể áp dụng cho ngành bán dẫn. Với lĩnh vực này, Nhà nước có thể giao cho Đại học Quốc gia Hà Nội làm đầu mối. Hàn Quốc cũng đã triển khai một trung tâm bán dẫn tương tự với quy mô đầu tư khoảng 500 triệu USD, mặc dù Samsung – tập đoàn hàng đầu thế giới – đã có sẵn năng lực chip. Các phòng lab như vậy chính là nền tảng để học sinh, sinh viên, startup và các công ty nhỏ có cơ hội tiếp cận, thử nghiệm và phát triển.
Chính phủ cũng cần có các chế tài và cơ chế ưu đãi đủ mạnh để bắt buộc hoặc khuyến khích các tập đoàn lớn như Samsung khi đầu tư vào Việt Nam phải có trách nhiệm “trao quyền” cho các doanh nghiệp quốc dân – tức các công ty do người Việt làm chủ. Chính phủ nên xem đây là một phần bắt buộc (incentivized obligation) trong thỏa thuận hợp tác đầu tư, thay vì chỉ dừng ở việc tạo việc làm hay chuyển giao hạ tầng đơn thuần. Việc tạo điều kiện để các doanh nghiệp này tham gia sâu vào chuỗi cung ứng không chỉ giúp lan tỏa tri thức, công nghệ mà còn là động lực để các “ông lớn” thực sự đóng góp vào việc phát triển năng lực công nghiệp trong nước.
Điều then chốt là nhà nước cần xây dựng cơ chế đặt hàng cho các doanh nghiệp quốc dân, ban hành chính sách và quy định bắt buộc ưu tiên và sử dụng sản phẩm do người Việt làm chủ và phát triển bằng công nghệ Việt Nam.
Cuối cùng, Nhà nước nên mạnh dạn cho phép nhập tịch các chuyên gia công nghệ hàng đầu, những cá nhân xuất sắc có thể làm tổng công trình sư, kỹ sư hệ thống cho các dự án công nghệ cốt lõi…. như đã cho nhập tịch các cầu thủ bóng đá, giúp làm thay đổi thành tích bộ môn thể thao này của Việt Nam.