Vừa thách thức, vừa có cơ hội
Ngay sau khi Nhà Trắng đăng tải sắc lệnh của Tổng thống Donald Trump về việc điều chỉnh mức thuế đối ứng, cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu đều hết sức quan tâm.
Chia sẻ với PV Tiền Phong , ông Trần Văn Lĩnh – Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thủy sản và thương mại Thuận Phước – cho biết, Mỹ là thị trường chiếm khoảng 50% kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp nên mọi thay đổi từ thị trường này đều tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo ông Lĩnh, thuế đối ứng do Mỹ công bố với từng quốc gia sẽ có tác động khác nhau theo từng ngành hàng, sản phẩm nên vừa có thách thức, vừa có cơ hội của các doanh nghiệp. Chẳng hạn với ngành tôm, mức thuế đối ứng mà Mỹ áp với sản phẩm nhập khẩu từ Ấn Độ là 25% (chưa kể các mức thuế như chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp mà tôm Ấn Độ đang chịu). Mức này đều cao hơn các quốc gia cạnh tranh là Ecuador và Việt Nam.

Xuất khẩu tôm chế biến, giá trị gia tăng sang Mỹ dự báo vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh.
Ecuador là nước chịu thuế thấp nhất chỉ 15%, song chủ yếu bán vào Mỹ sản phẩm tôm thương phẩm hoặc bán thành phẩm. Hai nguồn cung khác là Thái Lan và Indonesia cùng chịu mức thuế 19%: Thái Lan sản lượng không lớn nên cũng không đáng ngại; Indonesia là nước có lợi thế với sản phẩm tôm sú, sản phẩm của họ phải chịu thuế chống bán phá giá khá cao.
“Với Việt Nam, mức thuế đối ứng là 20% nhưng chúng ta tập trung vào sản phẩm chế biến, giá trị gia tăng cao. Trong trường hợp thị phần của Ấn Độ sụt giảm, có thể một phần đơn hàng sẽ được chuyển sang Việt Nam khi các doanh nghiệp cũng đã có lợi thế về sản phẩm chế biến. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng sơ chế và mặt hàng tôm thẻ chân trắng sẽ bị cạnh tranh gay gắt từ Ecuador. Mặt hàng tôm sú là cuộc đua với hàng từ Indonesia”, ông Lĩnh nhận định và cho biết đang đánh giá kỹ và thận trọng mức độ tác động để có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với diễn biến mới.
Với ngành dệt may, hiện nay giá trị nhập khẩu các sản phẩm này vào Mỹ tập trung ở 5 nước gồm Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Bangladesh và Indonesia. Việt Nam duy trì tỷ trọng xuất khẩu tại Mỹ là hơn 20%, thị phần đứng thứ 2 chỉ xếp sau Trung Quốc.

Dệt may được đánh giá có cơ hội khi các nước đối thủ như Ấn Độ, Trung Quốc bị áp thuế cao hơn.
Theo ông Trương Văn Cẩm – Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội dệt may Việt Nam, hiện đối thủ lớn tại thị trường Mỹ là Trung Quốc và Ấn Độ bị áp mức thuế cao hơn do đó tạo điều kiện cho các nước còn lại có thể có ưu thế hơn. Trong khi đó, Việt Nam và Bangladesh đều đạt thỏa thuận với Mỹ giảm thuế đối ứng xuống 20% nên mức độ cạnh tranh giữa hai quốc gia sẽ gay gắt hơn.
“Bangladesh có lợi thế về chi phí sản xuất đến từ nhân công giá rẻ và phần nào tự chủ được nguồn cung vải đầu vào cho sản xuất may mặc. Tuy nhiên, do cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ của Việt Nam tương đồng với Trung Quốc nên Việt Nam có lợi thế hơn Bangladesh trong việc bù đắp nguồn cung may mặc”, ông Cẩm cho hay.
Chờ tiếp tục đàm phán, tìm thị trường mới
Xuất khẩu điều sang Mỹ năm ngoái đạt hơn 1 tỷ USD nên dự báo sẽ có những tác động đáng kể.
Theo Hiệp hội Điều Việt Nam, Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu số 1 của hạt điều Việt Nam, chiếm khoảng 25-27% tổng kim ngạch. Trước đây, mặt hàng này xuất khẩu sang Mỹ được áp thuế với mức ưu đãi 0%. Vì thế, khi bị áp mức thuế cao hơn thì chắc chắn sẽ khiến giá hàng hóa tăng lên, gây khó khăn cho việc cạnh tranh khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ.

Doanh nghiệp điều đang tìm hướng đa dạng hoá thị trường.
Hiệp hội điều đánh giá, điều Việt Nam xuất sang Mỹ đang cạnh tranh với các nước như Ấn Độ, Bờ Biển Ngà và Brazil. Các nước này đều là những nhà cung cấp hạt điều lớn trên thế giới và có thể cung cấp các sản phẩm tương tự với giá cả cạnh tranh.
Cụ thể, Việt Nam và Ấn Độ là hai nước xuất khẩu hạt điều lớn nhất thế giới, với Ấn Độ có lợi thế về giá thành sản xuất thấp hơn. Bờ Biển Ngà, một trong những nước sản xuất hạt điều lớn nhất châu Phi, cũng là đối thủ cạnh tranh đáng gờm với Việt Nam trên thị trường Mỹ, đặc biệt là với các sản phẩm hạt điều thô. Brazil, với tiềm năng sản xuất lớn, cũng là một đối thủ tiềm năng trên thị trường xuất khẩu hạt điều sang Mỹ.
“Mức thuế 20% tuy vẫn còn cao nhưng cũng là tín hiệu khả quan với hàng xuất khẩu của Việt Nam, nhất là khi mức này đã được giảm mạnh từ dự kiến ban đầu là 46%. Trước diễn biến này Hiệp hội đang phối hợp với các doanh nghiệp để tìm phương án mở thị trường mới, hướng đến những thị trường tiềm năng khác như Trung Đông, Trung Á để bù vào những suy giảm khi xuất khẩu sang Mỹ”, đại diện Hiệp hội Điều Việt Nam cho hay.
Ông Ngô Sỹ Hoài – Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam – cho biết, từ ngày 8/4, gỗ và sản phẩm từ gỗ xuất khẩu sang Mỹ phải chịu điều tra theo mục 232 của Đạo Luật Thương mại mở rộng của Mỹ năm 1964, do đó sẽ phải chờ kết quả điều tra này chứ không áp dụng theo thuế đối ứng. Vì thế, trong trường hợp có kết luận điều tra, ngành gỗ đứng trước 2 lựa chọn: Thứ nhất là bị áp thuế, thứ hai là cấp hạn ngạch nhập khẩu. Đây là khó khăn lớn với ngành gỗ vì thị trường Mỹ hiện chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam.
“Khi mức thuế cao thì nhu cầu mua sắm của người Mỹ sẽ giảm. Vì vậy, Hiệp hội gỗ và Lâm sản Việt kỳ vọng hai bên sẽ tiếp tục đàm phán để giảm thêm thuế quan. Các doanh nghiệp chắc chắn vẫn kỳ vọng chính sách thuế quan của Mỹ với Việt Nam sẽ tiếp tục được đàm phán để đi đến điều chỉnh giảm hơn nữa trong thời gian tới”, ông Hoài nói.