LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo đánh giá về bức tranh kinh tế Việt Nam quý 1/2025 và dự báo cả năm 2025, trong đó có tính đến các tác động của chính sách thuế của Mỹ. Chúng tôi xin đăng tải nguyên văn báo cáo để quý độc giả tiện theo dõi.
—–
Bức tranh kinh tế thế giới quý 1/2025
Kinh tế thế giới (KTTG) trong quý 1/2025 tiếp tục phục hồi chậm, do nhiều yếu tố phức tạp, khó lường, đặc biệt chính sách thuế đối ứng của Tổng thống Mỹ D.Trump công bố ngày 2/4 và sau đó cùng với hành động đáp trả của các nước đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến kinh tế, thương mại, đầu tư và thị trường tài chính toàn cầu, đặc biệt tác động nhiều đến các nước có thặng dư thương mại lớn với Mỹ, trong đó có Việt Nam. Lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm nhẹ cùng với đà phục hồi kinh tế đang chậm lại khiến NHTW nhiều nước tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ, hạ lãi suất để thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, kinh tế thế giới vẫn đối mặt với rất nhiều rủi ro, thách thức; đặc biệt là căng thẳng địa chính trị, chiến tranh thương mại – công nghệ, bảo hộ hương mại gia tăng, khiến giá cả hàng hóa, lạm phát tăng trở lại, lãi suất giảm chậm hơn so với dự kiến, khiến tăng trưởng toàn cầu chậm lại; rủi ro an ninh năng lượng, lương thực, an ninh mạng và thiên tai, khí hậu cực đoan vẫn thường trực…v.v.
Theo đó, đa số các tổ chức quốc tế gần đây đều dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2025-2026 giảm 0.7-1 điểm %, từ mức dự báo tăng trưởng 2,7% xuống còn 1,7-2% năm 2025-2026, trong khi lạm phát sẽ duy trì ở mức cao hơn dự báo, xoay quanh 2,5-3%, chưa thể sớm về mức mục tiêu 2%.
Kinh tế Việt Nam Quý 1/2025 với 5 (năm) điểm sáng:
Một là, Đảng và Nhà nước đẩy mạnh đột phá thể chế, tinh gọn tổ chức – bộ máy, điều chỉnh địa giới hành chính địa phương theo mô hình 2 cấp; chủ động ứng phó với chính sách thuế quan của Mỹ, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô
Về đột phá thể chế, tinh gọn tổ chức – bộ máy và địa giới hành chính, các ban, bộ, ngành trung ương cơ bản đã hoàn thành sáp nhập, tiếp tục tinh gọn và đi vào hoạt động từ ngày 1/3; kế hoạch điều chỉnh địa giới hành chính địa phương theo mô hình 2 cấp đã và đang tích cực triển khai (dự kiến hoàn thành cấp xã trước ngày 30/6/2025 và cấp tình, thành phố trước 30/8/2025). Trong Q1/2025, Quốc hội và Chính phủ đã thông qua 4 Luật, 42 Nghị định, 50 Nghị quyết, 456 quyết định và 10 chỉ thị về phát triển KT-XH (trong đó phấn đấu đạt tăng trưởng GDP 8% trở lên, kiểm soát lạm phát (CPI bình quân) ở mức 4,5-5% năm 2025, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; các cơ chế, chính sách đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đẩy mạnh triển khai các dự án hạ tầng quan trọng, thúc đẩy việc thành lập trung tâm tài chính quốc tế, phát triển kinh tế tư nhân…v.v
Điểm nhấn là ứng phó với chính sách thuế quan mới của Mỹ và hội nhập kinh tế quốc tế, Chính phủ đã chủ động triển khai nhiều giải pháp như thành lập Tổ công tác về tăng cường hợp tác, chủ động thích ứng với chính sách kinh tế, thương mại của Mỹ; giảm thuế nhập khẩu đối với 23 nhóm hàng nhập khẩu, trong đó nhiều mặt hàng có thuế suất 0% (Nghị định số 73/2025/NĐ-CP ngày 31/3/2025); tăng nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ; gặp gỡ, làm việc với các cơ quan quản lý của Mỹ để đàm phán giảm mức thuế đối ứng với Việt Nam (đang dự kiến ở mức 46%), thành lập Tổ công tác đàm phán; chỉ đạo tăng cường kiểm soát xuất xứ hàng hóa, đa dạng hóa, tăng năng lực tự chủ, tự cường của nền kinh tế và doanh nghiệp…v.v.
Về chính sách tài khóa – tiền tệ, chính sách tài khóa (CSTK) tiếp tục mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, trong đó đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, phấn đấu giải ngân đầu tư công đạt 100% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, tiếp tục chính sách giãn, hoãn nộp thuế và tiền thuê đất, giảm 2% thuế VAT đến hết tháng 6/2025 (dự kiến trình các cấp cho phép tiếp tục chính sách này đến hết năm 2026). Chính sách tiền tệ (CSTT) điều hành theo hướng chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, hài hòa với chính sách tài khóa (CSTK) theo hướng thúc đẩy tăng trưởng song vẫn đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu và chất lượng đầu tư, chất lượng tín dụng…v.v.
Hai là, tăng trưởng GDP Q1/2025 cao nhất quý 1 trong vòng 6 năm nhưng vẫn thấp hơn kế hoạch theo Nghị quyết 01/NQ-CP; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; các cân đối lớn được bảo đảm: tăng trưởng GDP quý I/2025 đạt 6,93%, là mức tăng trưởng cao nhất của quý I trong vòng 6 năm nhưng vẫn thấp hơn kế hoạch theo Nghị quyết 01/NQ-CP. Theo đó, các động lực về cả phía cung và cầu đều đạt kết quả khả quan nhưng có dấu hiệu chậm lại.
Về phía cung, động lực tăng trưởng chính là lĩnh vực công nghiệp chế biến – chế tạo và dịch vụ (lần lượt tăng 9,28% và 7,7%), đóng góp 82,2% vào mức tăng trưởng chung, cùng với đó, nông nghiệp phục hồi khá (tăng 3,74%, cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 7 năm), đóng góp 0,43 điểm % (6,24%) vào mức tăng trưởng chung, vừa góp phần đảm bảo an ninh lương thực, bình ổn giá hàng hóa thiết yếu, kiềm chế lạm phát, vừa góp phần tăng xuất khẩu nông – lâm – thủy sản (đạt 15,7 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ).
Về phía cầu, động lực tăng trưởng chính là tiêu dùng cuối cùng tăng 7,45% so với cùng kỳ, đóng góp cao nhất vào tăng trưởng GDP (68,9%), là mức tăng trưởng và đóng góp cao nhất trong vòng trong vòng 8 năm; đầu tư (tích lũy tài sản) tăng 7,24%, là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 8 năm, đóng góp 37,6% vào tăng trưởng GDP, trong khi xuất khẩu ròng hàng hóa và dịch vụ tăng 9,71%, đóng góp 6,46% vào mức tăng trưởng chung.
Trong đó, XNK hàng hóa quý 1 đạt 202,52 tỷ USD, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 10,6%, nhập khẩu tăng 17%; cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 3,16 tỷ USD. XNK dịch vụ đạt 16,8 tỷ USD, tăng 22,9%, cán cân thương mại dịch vụ thâm hụt 1,64 tỷ USD, khiến xuất khẩu ròng hàng hóa và dịch vụ chỉ đạt 1,52 tỷ USD.
Thu hút và giải ngân FDI tăng tích cực, với vốn FDI đăng ký đạt 10,98 tỷ USD, tăng mạnh 34,7% so với cùng kỳ; vốn FDI giải ngân ước đạt 4,96 tỷ USD, tăng 7,2% – là mức giải ngân cao nhất trong 7 năm. Cùng với đó, đầu tư tư nhân phục hồi, tăng 5,5%, cao hơn mức tăng 4,8% cùng kỳ năm 2024, nhưng thấp hơn nhiều so với trước dịch (tăng 13,6%). Giải ngân đầu tư công đạt 13,5% kế hoạch năm và tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước (quý 1/2024 bằng 12,5% kế hoạch năm và tăng 3,6%).
Tiêu dùng tiếp tục phục hồi, du lịch tăng mạnh, với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ Q1/2025 tăng danh nghĩa 9,9%, tăng thực 7,5% (nhờ lượng khách du lịch tăng mạnh và tiêu dùng cá nhân phục hồi). Việt Nam đã đón 6,02 triệu lượt khách quốc tế, tăng 29,6% so với cùng kỳ năm 2024; khách nội địa ước đạt 35,5 triệu lượt, tăng 1,6%; tổng thu du lịch (gồm du lịch lữ hành và dịch vụ lưu trú, ăn uống) ước đạt 221,6 nghìn tỷ đồng, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2024.
Ba là, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân Q1/2025 tăng 3,22%, lạm phát cơ bản bình quân tăng 3,01% so với cùng kỳ năm 2024, thấp hơn mức tăng của lạm phát tổng thể (3,22%) chủ yếu là do hiệu ứng tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý (giá điện, tiền lương, dịch vụ y tế và giáo dục…) và áp lực cầu kéo (tăng trưởng tín dụng quý 1/2025 ước đạt 3,5%, cao hơn nhiều mức 1,42% của Q1/2024, giải ngân đầu tư công và tư đều tăng tích cực như nêu trên); trong đó 6 nhóm hàng hóa: thuốc và dịch vụ y tế, hàng hóa dịch vụ khác, nhà ở và VLXD, hàng ăn và dịch vụ ăn uống, đồ uống và thuốc lá, văn hóa, giải trí và du lịch có mức tăng cao nhất (2,2-14,4% so với cùng kỳ) và đóng góp 94% vào mức tăng CPI chung.
Bốn là, mặt bằng lãi suất cơ bản ổn định, tín dụng khả quan, tỷ giá tăng trong tầm kiểm soát: lãi suất cho vay bình quân đối với các khoản vay mới và khoản vay cũ bằng VND ở mức 6,7-9%/năm, giảm nhẹ so với cuối năm 2024, chủ yếu là do các TCTD đẩy mạnh triển khai các gói tín dụng ưu đãi nhằm hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ, NHNN và kích cầu tín dụng. Tín dụng ước tăng 3,5% so với cuối năm 2024 nhờ sự khởi sắc của các hoạt động đầu tư, tiêu dùng và thị trường bất động sản (BĐS). Tỷ giá liên ngân hàng tăng khoảng 2,1%, chủ yếu là do NHNN chủ động điều chỉnh tăng giá bán ngoại tệ, chấp nhận một mức biến động mạnh hơn của tỷ giá trong khi vẫn duy trì lãi suất ở mức thấp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tỷ giá tăng vẫn trong tầm kiểm soát nhờ nguồn cung ngoại tệ ổn định từ thu hút FDI, du lịch quốc tế và thặng dư thương mại, và đồng USD trong xu hướng giảm giá.
Năm là, thu ngân sách Nhà nước (NSNN) tăng khá cùng với đà phục hồi của sản xuất, tiêu dùng và xuất – nhập khẩu (XNK): thu NSNN ước đạt 36,7% dự toán năm, tăng 29,3% so với cùng kỳ năm 2024 nhờ đà phục hồi của sản xuất, tiêu dùng và XNK cũng như việc đa dạng hóa nguồn thu, tạo dư địa cho thực thi CSTK mở rộng và phục vụ công tác cải cách tiền lương, tinh gọn tổ chức – bộ máy đang tiến hành. Tuy nhiên, cần lưu ý là chi NSNN chỉ bằng 16,8% dự toán năm, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2024, chủ yếu là do chi đầu tư phát triển mới đạt 78,7 nghìn tỷ đồng, bằng 10% dự toán năm, giảm 2,5% so với cùng kỳ (chủ yếu do đầu tư công đã cải thiện song còn chậm và không đồng đều).

Tỷ giá vẫn tăng trong tầm kiểm soát ở quý 1 vừa qua (ảnh minh hoạ)
Năm rủi ro, thách thức chính trong năm 2025
Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài gia tăng, bao gồm: (i) rủi ro địa chính trị, nhất là chiến tranh thương mại – công nghệ, bảo hộ thương mại gia tăng (đặc biệt việc áp thuế đối ứng của Mỹ và sự đáp trả của các nước) khiến giá cả hàng hóa tăng cao, lạm phát, lãi suất có thể giảm chậm hơn so với dự kiến, từ đó tạo áp lực đối với lạm phát, lãi suất và tỷ giá của Việt Nam; (ii) một số nước giảm đà phục hồi (Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản…), khiến tăng trưởng toàn cầu chậm lại rõ rệt; (iii) lạm phát, lãi suất dù giảm nhưng còn ở mức cao, neo lâu, khiến đà phục hồi khó khăn hơn nhiều, rủi ro nợ công và tư còn cao; (iv) nguy cơ rủi ro an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng và thiên tai, xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu cực đoan vẫn thường trực.
Hai là, các động lực tăng trưởng truyền thống phục hồi nhưng chưa đồng đều, còn thấp hơn so với trước dịch và chưa bền vững. Đóng góp của chênh lệch XNK hàng hóa và dịch vụ vào tăng trưởng chung (6,46%) chỉ cao hơn mức trong giai đoạn dịch Covid-19 (2,7-3,5%), thấp hơn nhiều cùng kỳ 2 năm qua (14-20%) do thâm hụt cán cân dịch vụ vẫn ở mức cao. Đầu tư tư nhân phục hồi khá (tăng 5,5%) song thấp hơn nhiều so với trước dịch (13,6%), thấp hơn mức tăng vốn đầu tư toàn xã hội (8,3%) và thấp nhất trong 3 khu vực; doanh thu bán lẻ (loại trừ yếu tố giá) tăng 7,5%, chỉ bằng 83% mức trước dịch (9%)…v.v. Vốn FDI đăng ký mới đang chậm lại (giảm 31,5% so với cùng kỳ) và dòng vốn FDI sẽ bị giảm nếu mức thuế đối ứng của Mỹ ở mức 25% trở lên. Giải ngân đầu tư công đã cải thiện song còn chậm (35/63 địa phương chưa phân bổ vốn kế hoạch năm, mục tiêu giải ngân 95-100% kế hoạch là rất thách thức).
Ba là, nợ xấu tăng và còn nhiều thách thức trong xử lý: tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn hệ thống (không bao gồm 5 NHTM thuộc diện kiểm soát đặc biệt) cuối năm 2024 ở mức 1,93% tổng dư nợ, tăng so với mức 1,69% cuối năm 2023, trong đó nợ nhóm 5 (có khả năng mất vốn) của 27 NHTM niêm yết ở mức hơn 131 nghìn tỷ đồng cuối năm 2024, tăng 43% so với cùng kỳ năm trước, cho thấy áp lực nợ xấu vẫn ở mức cao, trong khi Thông tư 06/2024/TT-NHNN cho phép cơ cấu lại nợ đã hết hiệu lực cuối năm 2024, cùng với rủi ro thuế quan tác động tiêu cực đến XNK, đầu tư và tiêu dùng trong nước, khiến nợ xấu có thể còn tăng, đòi hỏi quan tâm phòng ngừa và xử lý quyết liệt hơn trong thời gian tới.
Bốn là, hoạt động doanh nghiệp còn đối mặt với nhiều khó khăn: trong Q1/2025, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn vẫn tăng 15,1% và số doanh nghiệp hoàn tất giải thể tăng 23% so với cùng kỳ. Số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 78,8 nghìn, cao hơn 1,08 lần lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường (72,9 nghìn), dù chưa nói lên xu hướng nhưng là điểm cần lưu ý.
Năm là, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phục hồi chậm và thị trường bất động sản còn thiếu bền vững: theo VIS rating, trong quý I/2025, lượng phát hành TPDN mới chỉ đạt 25.130 tỷ đồng, giảm 12% so với cùng kỳ, một phần do yếu tố mùa vụ (Q1 giai đoạn 2021-2025 chỉ chiếm khoảng 10% tổng lượng phát hành hàng năm). Giá trị phát hành riêng lẻ thấp nhất trong vòng 5 năm qua khi chỉ có 2 đợt phát hành với giá trị 2.000 tỷ đồng. Tổng giá trị TPDN chậm thanh toán chiếm 14,6% dư nợ TPDN toàn thị trường, chủ yếu là TPDN bất động sản (chiếm khoảng 60%) tính đến cuối quý 1/2025. Thị trường BĐS dần phục hồi, nhưng thiếu bền vững do giá BĐS ở mức cao; những vướng mắc về định giá đất, đấu giá đất, quy hoạch, giải phóng mặt bằng, hoàn thiện hồ sơ dự án, phát triển nhà ở xã hội…vẫn chậm xử lý và chưa dứt điểm.

Chiến tranh thương mại – công nghệ, bảo hộ thương mại gia tăng (đặc biệt việc áp thuế đối ứng của Mỹ và sự đáp trả của các nước) là một trong những rủi ro lớn trong năm nay
Dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam cả năm 2025
Về triển vọng, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều rủi ro, bất ổn (đặc biệt là “cú sốc” thuế quan của Mỹ), lạm phát và lãi suất có thể giảm chậm hơn dự kiến, tăng trưởng kinh tế thế giới ở mức thấp (1,8-2% năm 2025-2026), kinh tế của Việt Nam dự báo chịu ảnh hưởng khá tiêu cực trong năm 2025 và 1-2 năm tới. Tuy nhiên, kỳ vọng việc đàm phán thuế quan và các giải pháp cân bằng cán cân thương mại với Mỹ đạt kết quả tích cực, Việt Nam vẫn giữ được lợi thế thương mại và thu hút FDI nhất định so với các quốc gia khác, cùng với các chính sách, giải pháp kích cầu nội địa, phát huy động lực tăng trưởng mới từ nửa cuối năm 2025, tăng trưởng GDP cả năm 2025 có thể tiến sát mục tiêu.
Tăng trưởng GDP: Nhóm Nghiên cứu dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam cả năm 2025 theo 3 kịch bản.
Với kịch bản cơ sở (xác xuất 60%), tính đến khả năng đàm phán với Mỹ về thuế đối ứng đạt kết quả khả quan, giả định phấn đấu đạt được mức 20-25% (giảm mạnh từ mức dự kiến 46% hiện nay, hoặc thấp hơn theo từng ngành hàng cụ thể); các doanh nghiệp, ngành hàng chủ động thích ứng, tận dụng tốt cơ hội của các FTA hiện có, đa dạng hóa thị trường, khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng mới; tăng trưởng GDP quý Q3 và Q4 duy trì tương đương Quý 2/2025 (ở mức 6,7-7%), theo đó dự báo tăng trưởng GDP cả năm 2025 có thể đạt mức 6,5-7% (giảm khoảng 1-1,5 điểm % so với mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên khi chưa có cú sốc thuế quan Mỹ và dự báo tháng 1/2025 của Nhóm Nghiên cứu).
Với kịch bản tích cực nhất (phấn đấu, xác xuất 20%), tăng trưởng GDP có thể đạt 7,5-8% (giảm 0,5% so với kịch bản không có cú sốc thuế quan Mỹ) khi đàm phán với Mỹ đạt kết quả rất tích cực, đồng thời khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng mới bù đắp sự sụt giảm của các động lực truyền thống và do rủi ro thuế quan.
Với kịch bản tiêu cực hơn (xác xuất 20%), chiến tranh thương mại leo thang, kéo dài, nhiều nước/khối đáp trả, hoạt động thương mại, đầu tư và tiêu dùng toàn cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng, các động lực tăng trưởng truyền thống (xuất khẩu ròng, đầu tư, tiêu dùng…) sụt giảm mạnh trong khi các động lực tăng trưởng mới chưa phát huy hiệu quả rõ nét, khi đó tăng trưởng GDP cả năm dự báo chỉ ở mức khoảng 5,5-6%. Đây là kịch bản không mong muốn nhưng cũng cần tính đến.

– Về lạm phát: Áp lực lạm phát có thể tăng dần trong quý 2/2025 và 6 tháng cuối năm do cả yếu tố chi phí đẩy (giá hàng hóa – dịch vụ nhập khẩu cao hơn do thuế quan của Mỹ, giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý tăng theo lộ trình) và yếu tố cầu kéo (tăng trưởng tín dụng ước đạt 14-15%, giải ngân đầu tư công và tư nhân trong nước tăng khá, vòng quay tiền ở mức 0,8-0,9 lần, cao hơn năm 2024 nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng cao hơn). Tuy nhiên, CPI bình quân năm 2025 dự báo tăng 4-4,5%, cao hơn năm 2024 (3,63%) song vẫn dưới mức mục tiêu (4,5-5%). Theo đó, lạm phát tăng nhưng vẫn trong tầm kiểm soát do sức cầu chưa phục hồi mạnh, nguồn cung hàng hóa – dịch vụ thiết yếu trong nước được bảo đảm, tỷ giá, lãi suất cơ bản ổn định và phối hợp chính sách ngày càng tốt hơn.
Sáu kiến nghị
Để ứng phó kịp thời, hiệu quả với chính sách thuế quan của Mỹ, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, khai thác tốt hơn các động lực tăng trưởng mới, phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao nhất có thể, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, Nhóm nghiên cứu có 6 kiến nghị như sau:
Một là, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chủ trương đột phá thể chế, tinh gọn tổ chức – bộ máy, điều chỉnh địa giới hành chính, chống lãng phí, cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh đang tiến hành: (i) Kịp thời tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình thực hiện các Luật mới quan trọng (đất đai, nhà ở, kinh doanh BĐS, đầu tư công và các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ…); (ii) Thực hiện thành công, thực chất mục tiêu loại bỏ ít nhất 30% thủ tục hành chính không cần thiết, giảm 30% chi phí tuân thủ và 30% thời gian xử lý công việc hành chính, tạo đột phá về môi trường đầu tư – kinh doanh, vừa tháo gỡ rào cản, vừa kiến tạo thu hút đầu tư mới và phát triển nhanh, bền vững hơn.
Hai là, chú trọng hơn nữa các biện pháp thúc đẩy hợp tác cùng có lợi với Mỹ trên nhiều lĩnh vực, trong đó: (i) tích cực đàm phán thương mại, với gói chính sách phù hợp, đủ mạnh, nhằm giảm thuế đối ứng (phấn đấu ở mức 20-25% từ 46%, hoặc thấp hơn theo từng ngành hàng cụ thể) như một cấu phần quan trọng trong Thỏa thuận thương mại song phương với Mỹ; (ii) giải quyết kịp thời các quan ngại của Mỹ trong Báo cáo rào cản thương mại công bố ngày 31/3/2025 (nhất là về nguồn gốc xuất xứ, trung chuyển hàng hóa, sở hữu trí tuệ, thao túng tiền tệ, năng lượng, dược phẩm, thương mại điện tử, viễn thông, an ninh mạng…)…; (iii) xem xét tiếp tục giảm thuế nhập khẩu cho hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ, đồng thời tăng nhập khẩu từ Mỹ, nhất là những sản phẩm mà Mỹ có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu (như chất bán dẫn, khí LNG, máy bay, thiết bị hàng không, dược phẩm, thiết bị y tế, nông sản…v.v.); (iv) Tận dụng tốt hơn 17 FTA đã ký kết, đa dạng hóa thị trường, đối tác, chuỗi cung ứng, đặc biệt các thị trường lớn, nhiều tiềm năng như thị trường Halal (với quy mô 2,2 tỷ người), châu Phi, Nam Mỹ, Trung Đông…v.v.; (v) triển khai hiệu quả các chương trình, chính sách kích cầu tiêu dùng phù hợp gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, “Chương trình mỗi xã một sản phẩm OCOP”…v.v.; (vi) có chính sách hỗ trợ phù hợp đối với các ngành nghề, lĩnh vực và doanh nghiệp bị tác động tiêu cực do chính sách thuế quan của Mỹ.
Ba là, làm mới các động lực truyền thống, theo đó các địa phương cần quyết liệt triển khai Nghị quyết 01/2025/NQ-CP và Nghị quyết 25/NQ-CP về phân giao mục tiêu tăng trưởng 2025 cho các địa phương; thực thi hiệu quả các chính sách kích cầu đầu tư tư nhân, tiêu dùng, đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; giữ vững mặt trận xuất khẩu..v.v. Trong đó, cần phát huy tốt hơn các đầu tàu kinh tế (nhất là các thành phố trực thuộc Trung ương, các cực tăng trưởng nhằm tăng tính lan tỏa); thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân như là một động lực quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế, thực hiện ngay trong quý 2/2025…v.v.
Đồng thời, khai thác tốt hơn các động lực tăng trưởng mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các lĩnh vực mới như AI, năng lượng, liên kết vùng, khu thương mại tự do…), nhằm bù đắp sự sụt giảm của các động lực tăng trưởng truyền thống và rủi ro thuế quan, nhất là: (i) Triển khai thực chất, hiệu quả Nghị quyết 57/NQ-TW về đột phá ứng dụng KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; (ii) Đẩy nhanh hoàn thiện thể chế cho các động lực tăng trưởng mới (cơ chế sandbox cho Fintech và kinh tế tuần hoàn, ban hành danh mục phân loại xanh, sửa đổi Quy hoạch điện VIII; quản lý tài sản số, tiền kỹ thuật số; thành lập Quỹ hỗ trợ chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, Quỹ phát triển nhà ở quốc gia…v.v.
Bốn là, nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách (đặc biệt giữa CSTT, CSTK, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác) nhằm thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, bình ổn tỷ giá, thị trường tài chính – tiền tệ, thị trường vàng, đảm bảo an sinh xã hội; quan tâm phát triển thị trường vốn, nhất là việc nâng hạng thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu doanh nghiệp cùng với việc kiểm soát rủi ro hệ thống; có lộ trình phù hợp khi tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý; luôn đảm bảo cung ứng đầy đủ hàng hóa, dịch vụ thiết yếu.
Năm là, chú trọng đẩy nhanh cơ cấu lại nền kinh tế để huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn; nhất là cổ phần hóa và thoái vốn DNNN (cũng là để tăng hàng hóa cho thị trường chứng khoán), xử lý dứt điểm các TCTD yếu kém, tăng vốn cho các TCTD Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng cao, phát triển bền vững, giảm rủi ro, tăng tính lành mạnh và hiệu quả của thị trường…v.v.
Sáu là, quan tâm nâng cao chất lượng tăng trưởng, sớm thành lập Ủy ban Năng suất quốc gia, triển khai các chiến dịch về tăng năng suất, chú trọng nâng cao trình độ, chất lượng lao động nhằm ứng dụng và làm chủ KHCN, đóng góp ngày càng cao cho tăng trưởng; xây dựng đề án nâng cao sức chống chịu, năng lực tự chủ, tự cường của nền kinh tế trong dài hạn.