“Bơm” tiền ra nền kinh tế thế nào?
Năm nay, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% thì tăng trưởng tín dụng phải ở mức 16%, tương ứng lượng tiền tăng thêm 2,5 triệu tỷ đồng.
Theo Ngân hàng Nhà nước, ước tính trong 5 tháng đầu năm, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đã tăng thêm hơn 1 triệu tỷ đồng, lên hơn 16,6 triệu tỷ đồng. Đây là mức tăng dư nợ kỷ lục trong 5 tháng đầu năm.
Tăng trưởng tín dụng toàn ngành 5 tháng cao gấp 2,7 lần so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ riêng 10 ngày cuối tháng 5 đã tăng tới 0,93%. Tuy nhiên, tín dụng đang có sự phân hoá rõ rệt giữa các nhóm ngân hàng. Các ngân hàng chuyên phục vụ doanh nghiệp sản xuất tăng trưởng tín dụng vẫn tích cực, nhưng ở mức xấp xỉ trung bình ngành. Nhóm có thế mạnh về bất động sản, đầu tư công đang tăng trưởng tín dụng cao hơn mặt bằng chung.
Trao đổi với báo chí mới đây, ông Trần Minh Bình – Chủ tịch HĐQT VietinBank – cho biết, Vietinbank là ngân hàng ghi nhận tốc độ tăng trưởng tín dụng mạnh nhất trong nhóm ngân hàng quốc doanh. Theo số liệu cập nhật đến ngày 10/6, tăng trưởng tín dụng của VietinBank đã đạt 9,1%.

Tăng trưởng tín dụng ngân hàng tăng cao (ảnh: Như Ý).
Các ngân hàng khác trong nhóm Big4 (BIDV, Vietcombank, Agribank) mặc dù chưa công bố chính thức, nhưng dự kiến, tăng trưởng tín dụng cũng ở mức cao, 5,8-7%, với dư nợ tín dụng đạt hơn 1 triệu tỷ đồng. Với nhóm ngân hàng tư nhân cũng có con số tăng trưởng tín dụng cao.
Ông Nguyễn Quốc Hùng – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam – nhận định, mặt bằng lãi suất thấp là động lực chính thúc đẩy nhu cầu vay vốn, đặc biệt trong bối cảnh các doanh nghiệp đang trên đà phục hồi hoạt động sản xuất – kinh doanh. Đây cũng là kết quả của quá trình cắt giảm lãi suất, đa dạng hóa sản phẩm tín dụng và cải cách thủ tục nhằm đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp.
Cẩn trọng kiểm soát rủi ro
Giai đoạn 2006 – 2010, hệ thống ngân hàng Việt Nam chứng kiến một đợt tăng trưởng tín dụng phi mã, với mức tăng bình quân lên đến khoảng 36% mỗi năm, đặc biệt cao vào năm 2007 (51,54%) và năm 2009 (37,53%). Tỷ lệ tín dụng/GDP cũng vọt lên nhanh chóng, từ 60,6% năm 2005 lên 106,6% năm 2010.
Diễn biến này là hệ quả của cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức tín dụng thời điểm đó, nhằm huy động nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu cho vay gia tăng. Tuy nhiên, dòng vốn tín dụng thực tế lại chảy vào những lĩnh vực có mức độ rủi ro cao, như chứng khoán, bất động sản, dẫn đến cuộc đua lãi suất và sự leo thang của nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.
Hệ lụy lớn nhất là việc mất kiểm soát về chất lượng tín dụng và bất ổn vĩ mô. Nợ xấu tăng nhanh, nhiều tổ chức tín dụng đứng trước nguy cơ mất thanh khoản, dẫn đến bất ổn kinh tế vĩ mô. Lạm phát cũng tăng cao, đạt đỉnh 19,89% vào năm 2008 và kéo dài ở mức hai con số cho đến năm 2011.
Thực tế, nợ xấu đang tăng nhanh thời gian gần đây. Năm 2024, nợ xấu toàn ngành ngân hàng tăng 17% về quy mô. Riêng nợ xấu nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) của 27 ngân hàng niêm yết tăng tới 43%.
Chuyên gia tài chính Nguyễn Quang Huy cảnh báo , nếu các ngân hàng chạy đua cho vay thì chất lượng tín dụng có thể không kiểm soát được và nợ xấu gia tăng là khó tránh.
Theo chuyên gia này, dù cầu vốn để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế là rất cần thiết, song tín dụng vẫn phải tăng trong vòng kiểm soát. Việc kiểm soát tín dụng cũng là để thúc đẩy các kênh huy động vốn khác phát triển, đặc biệt là kênh trái phiếu doanh nghiệp.
Nhóm chuyên gia của Công ty Chứng khoán SHS Research chỉ rõ, mặt trái của đà tăng trưởng tín dụng là rủi ro chất lượng nợ gia tăng. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ toàn ngành đã lên tới 2,16%, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, tỷ lệ bao phủ nợ xấu suy giảm còn 80%, phản ánh chi phí trích lập dự phòng trong kỳ tăng chậm.