
Ảnh minh hoạ
Cần sớm luật hóa Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu
Sau 6 năm triển khai, Nghị quyết 42 đã phát huy hiệu quả rõ rệt khi trao thêm cho các chủ nợ (ngân hàng, VAMC…) những quyền liên quan đến xử lý các tài sản đảm bảo nhằm rút ngắn thời gian xử lý nợ xấu và xử lý TSĐB, góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, Nghị quyết 42/2017/QH14 (Nghị quyết 42)hết hiệu lực vào ngày 31/12/2023, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xử lý, thu hồi nợ của các ngân hàng và tổ chức mua bán, xử lý nợ. Thực tế từ ngày 1/1/2024 đến nay, trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn và hành lang pháp lý về xử lý TSBĐ, xử lý nợ xấu còn bất cập, thiếu đồng bộ và thống nhất, nợ xấu của hệ thống ngân hàng có xu hướng gia tăng.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn ngành tính đến tháng 1/2025 ở mức 4,3%. Trước đó, cuối tháng 7/2024, tỷ lệ nợ xấu nội bảng (gồm cả nợ xấu của các ngân hàng mua lại bắt buộc và ngân hàng được kiểm soát đặc biệt) ở mức 4,75%, tăng so với mức 4,55% vào cuối năm 2023 và khoảng 2% cuối năm 2022.
Như vậy, nợ xấu nội bảng của hệ thống các tổ chức tín dụng, theo Ngân hàng Nhà nước, có giảm nhẹ so với năm ngoái nhưng vẫn ở mức cao trong suốt thời gian qua, tập trung tại một số ngân hàng yếu kém. Do đó, việc luật hoá các quy định trong Nghị quyết 42 sẽ giúp các ngân hàng yên tâm hơn trong việc cấp tín dụng khi các “cục máu đông – nợ xấu” được khơi thông, đồng thời góp phần giảm chi phí vay cho người dân và doanh nghiệp.
Trước yêu cầu thực tiễn trên, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV, Chính phủ đã trình Quốc hội Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, nhằm luật hóa một số chính sách quan trọng từ Nghị quyết số 42, hướng đến nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính ngân hàng.
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà (đoàn Quảng Ninh) cho rằng, Nghị quyết 42 chưa giải quyết triệt để các vấn đề liên quan đến xử lý nợ xấu. Khi Nghị quyết hết hiệu lực, các tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn vì không có quyền thu hồi tài sản khi bên giữ tài sản bảo đảm không bàn giao, dẫn đến xử lý nợ xấu gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ tôn trọng quyền tự do, tự nguyện cam kết của các bên trong việc cho vay và thu hồi nợ, đồng thời tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng xử lý tài sản bảo đảm sớm nhất. Bà cũng đánh giá cao quy định về kê biên tài sản, cho rằng điều này giúp giải quyết các vướng mắc của tổ chức tín dụng và tổ chức xử lý nợ, qua đó hài hòa lợi ích giữa chủ nợ và bên nhận tài sản bảo đảm.
Theo đại biểu Nguyễn Thị Yến (đoàn Bà Rịa – Vũng Tàu), quy định cho phép tổ chức tín dụng và tổ chức xử lý nợ thu giữ tài sản bảo đảm nếu có thỏa thuận trong hợp đồng là phù hợp. Tuy nhiên, bà Yến đề nghị bổ sung trách nhiệm pháp lý và vai trò của chính quyền địa phương, đặc biệt là Ủy ban nhân dân và công an cấp xã, để hỗ trợ quá trình thu giữ.
Về vai trò của chính quyền địa phương, đại biểu Trịnh Xuân An (đoàn Đồng Nai) cũng nhấn mạnh, cần làm rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân và công an cấp xã, bao gồm tiêu chí phối hợp và cách thức lập biên bản, để tránh khó khăn trong triển khai. Theo ông An, việc bổ sung quy định chi tiết về cách thức đảm bảo an ninh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức tín dụng thực hiện quyền thu giữ.
Luật hóa Nghị quyết 42 sẽ mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế
Trong báo cáo phân tích mới công bố, các chuyên gia VNDirect cho rằng, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD 2024 đang trình Quốc hội khóa XV xem xét tại kỳ họp tháng 5/2025, nếu được thông qua, luật sẽ mang tính ổn định và bền vững hơn nghị quyết trước đây, nhờ 3 yếu tố.
Thứ nhất, phạm vi áp dụng mở rộng: Luật mới áp dụng cho mọi khoản nợ xấu không giới hạn thời điểm phát sinh, thay vì chỉ giới hạn trước ngày 15/8/2017 như Nghị quyết 42;
Thứ hai, tăng quyền cho TCTD: Trao thêm quyền thu giữ và nhận lại TSBĐ (bổ sung các quy định nhận TSĐB trong vi phạm hành chính), giúp đẩy nhanh quá trình xử lý nợ;
Thứ ba, ưu tiên áp dụng luật trong tranh chấp: Nếu các quy định về thu giữ, kê biên và hoàn trả TSĐB được luật hóa đầy đủ, Luật TCTD sẽ được ưu tiên áp dụng trong tranh chấp dân sự và hành chính, trừ trường hợp liên quan đến tố tụng hình sự đang diễn ra.
Bên cạnh đó, các chuyên gia của VNDirect cho rằng, việc luật hóa 3 điều khoản trong Nghị quyết 42 (quyền thu giữ TSBĐ; kê biên tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm TSBĐ cho khoản nợ xấu; hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án…) sẽ giúp giảm tỷ lệ nợ xấu ngành ngân hàng xuống dưới 3%. Bởi, tính đến tháng 1/2025, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn ngành ở mức 4,3%, tập trung tại một số ngân hàng yếu kém và diện kiểm soát đặc biệt.
“Chúng tôi kỳ vọng tỷ lệ nợ xấu toàn ngành sẽ giảm rõ rệt trong năm đầu triển khai nhờ việc xử lý mạnh các khoản nợ có TSĐB, dựa trên kinh nghiệm từ giai đoạn 2017–2021 khi Nghị quyết 42 có hiệu lực”, các chuyên gia VNDirect nhấn mạnh.
Cũng theo các chuyên gia VNDirect, luật hóa các quy định tại Nghị quyết 42 còn giúp giảm chi phí vốn vay cho doanh nghiệp và người dân – phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ. Các quy định rõ ràng và minh bạch sẽ rút ngắn thời gian thu hồi nợ, giảm chi phí xử lý nợ, chi phí trích lập dự phòng và rủi ro cho ngân hàng. Khi chi phí rủi ro nợ xấu giảm, ngân hàng có thể hạ lãi suất, hỗ trợ khách hàng tiếp cận vốn dễ dàng hơn.
“Luật hóa áp dụng cho tất cả các TCTD, nên khó xác định ngân hàng nào hưởng lợi nhiều nhất. Tuy nhiên, quyền thu giữ TSĐB (điểm 1) được kỳ vọng sẽ thúc đẩy thời gian và giảm chi phí xử lý nợ xấu. Do đó, các TCTD tập trung cho vay bán lẻ, phải xử lý nhiều món nợ nhỏ và/hoặc chiến lược tập trung hơn vào mảng cho vay ô tô sẽ được hưởng lợi. Bên cạnh đó, luật hóa cũng sẽ hỗ trợ các TCTD nhận chuyển giao bắt buộc như MB, HDBank, Vietcombank, VPBank trong việc tái cấu trúc các ngân hàng yếu kém”, các chuyên gia VNDirect nhận định.
Giải trình trước Quốc hội ngày 29/5 về việc luật hóa các nội dung của Nghị quyết 42, Thống đốc cho rằng, việc đưa các quy định của Nghị quyết 42 vào Luật sẽ tạo cơ sở pháp lý ổn định, lâu dài, giúp xử lý nợ xấu hiệu quả hơn, đồng thời bảo vệ quyền lợi của TCTD, người gửi tiền và người vay. Tiền cho vay của các TCTD chính là tiền gửi của người dân, do đó việc bảo vệ TCTD cũng đồng nghĩa với bảo vệ người gửi tiền.
Các quy định này cũng phù hợp với tinh thần của Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm quyền tài sản và thực thi hợp đồng. Trên thực tế, nhiều tổ chức quốc tế cũng khuyến nghị Việt Nam cần có quy định bảo vệ người cho vay để tăng cường an toàn hệ thống tài chính…
“Việc luật hóa Nghị quyết 42 không chỉ giúp các TCTD xử lý tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu mà còn khơi thông dòng vốn bị ách tắc trước đây. Khi nợ xấu được xử lý, TCTD sẽ có thêm nguồn lực để luân chuyển vốn, đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Đồng thời, việc giảm nợ xấu cũng giúp các TCTD giảm áp lực trích lập dự phòng rủi ro, từ đó tạo điều kiện để giảm lãi suất cho vay, mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và người vay”, Thống đốc khẳng định.
Cũng theo Thống đốc, để bảo đảm quyền lợi của người vay và tránh lạm dụng, Luật đã quy định rõ các điều kiện, quy trình, trình tự và thủ tục công khai trong việc thu giữ tài sản đảm bảo. Các TCTD phải xây dựng quy trình nội bộ minh bạch, tuân thủ đúng quy định pháp luật khi xử lý tài sản bảo đảm.
Tán thành việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm, đại biểu Phạm Đức Ấn (đoàn Quảng Ninh), nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên Agribank, nhấn mạnh đây không phải sự ưu ái cho ngành Ngân hàng mà nhằm đảm bảo nguyên tắc có vay có trả và bảo vệ tiền gửi của người dân. Ông cho rằng việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của tổ chức tín dụng cũng đồng nghĩa với bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và nhà nước. Hơn nữa, ông khẳng định khi pháp luật bảo vệ quyền thu giữ tài sản bảo đảm, người vay sẽ nhận thức rõ trách nhiệm trả nợ, tránh chây ì, giảm thiểu thủ tục tố tụng và thời gian thi hành án, đồng thời giúp tổ chức tín dụng giảm trích lập dự phòng rủi ro, tạo điều kiện hạ lãi suất cho vay.
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà (đoàn Quảng Ninh) cũng nhận định, Nghị quyết 42 chưa giải quyết triệt để các vấn đề liên quan đến xử lý nợ xấu. Khi Nghị quyết hết hiệu lực, các tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn vì không có quyền thu hồi tài sản khi bên giữ tài sản bảo đảm không bàn giao, dẫn đến xử lý nợ xấu gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ tôn trọng quyền tự do, tự nguyện cam kết của các bên trong việc cho vay và thu hồi nợ, đồng thời tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng xử lý tài sản bảo đảm sớm nhất. Bà cũng đánh giá cao quy định về kê biên tài sản, cho rằng điều này giúp giải quyết các vướng mắc của tổ chức tín dụng và tổ chức xử lý nợ, qua đó hài hòa lợi ích giữa chủ nợ và bên nhận tài sản bảo đảm.