spot_img
27.8 C
Hanoi
spot_img
Trang chủTài ChínhTS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng...

TS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là hợp lý, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản"

Khối ngân hàng đang là “trụ cột” cung cấp vốn cho nền kinh tế và đóng góp ngày càng lớn cho ngân sách Nhà nước. Nhưng phía sau những con số ấn tượng ấy là áp lực tỷ lệ tín dụng/GDP ở mức cao, rủi ro về kỳ hạn, lãi suất cùng yêu cầu cấp bách phải chuyển đổi số để không bị tụt lại trong cuộc đua toàn cầu.
TS. Nguyễn Trí Hiếu

TS. Nguyễn Trí Hiếu

Chuyên gia tài chính
323 bài viết

Đó là nhận định của TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính – ngân hàng, trong cuộc trao đổi với phóng viên về bức tranh toàn cảnh, các chính sách điều hành và định hướng phát triển ngành ngân hàng Việt Nam.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là hợp lý, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản"- Ảnh 1.

PV: Ông đánh giá thế nào về bức tranh chung của ngành ngân hàng Việt Nam hiện nay?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Ngành ngân hàng luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiền tệ quốc gia. Hiện nay, tổng dư nợ tín dụng đã lên tới hơn 134% GDP. Ở khía cạnh tích cực, ngân hàng đang là nguồn cung cấp vốn lớn nhất của nền kinh tế. Năm nay, Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16%, nhằm hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng GDP tối thiểu 8% (đã được điều chỉnh lên 8,3–8,5%). Thông thường, tăng trưởng tín dụng cần gấp đôi tăng trưởng GDP, nên con số 16% là phù hợp với mục tiêu đề ra.

Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, việc tỷ lệ tín dụng/GDP đạt hơn 134% là mức rủi ro cao. Nhiều tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF đã nhiều lần cảnh báo Việt Nam về tình trạng tăng trưởng tín dụng quá mạnh, khiến toàn bộ hệ thống tài chính phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn ngân hàng, tạo rủi ro hệ thống.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là hợp lý, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản"- Ảnh 2.

PV: Cụ thể, những rủi ro lớn nhất mà ngành ngân hàng đang đối diện là gì, thưa ông?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Một rủi ro lớn là rủi ro kỳ hạn. Khoảng 70% vốn huy động của ngân hàng là vốn ngắn hạn, nhưng một phần đáng kể lại được cho vay trung và dài hạn. Theo quy định, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung – dài hạn không được vượt quá 30%, nhưng thực tế một số ngân hàng đã vượt ngưỡng này. Khi tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn (cho đến 12 tháng)/cho vay trung và dài hạn (trên 12 tháng) càng cao, rủi ro thanh khoản liên quan đến kỳ hạn càng lớn.

Rủi ro thứ hai là rủi ro lãi suất. Ở Việt Nam, các khoản vay dài hạn hầu hết áp dụng lãi suất thả nổi, tính bằng lãi suất huy động cộng biên độ. Khi lãi suất huy động biến động, lãi suất vay cũng biến động theo, tạo áp lực cho cả doanh nghiệp và cá nhân vay vốn. Khác với Mỹ, nơi người dân có thể vay mua nhà với lãi suất cố định 30 năm, Việt Nam không có mô hình này do thiếu nguồn vốn dài hạn.

Ngoài ra, một số ngân hàng còn vượt mức giới hạn tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động (khuyến nghị tối đa 85%), thậm chí lên đến 100%. Điều này phản ánh sự phụ thuộc lớn vào tín dụng và kéo theo nhiều rủi ro: thanh khoản, lãi suất, khả năng trả nợ. Trong khi đó, nguồn vốn của nền kinh tế vẫn chủ yếu đến từ ngân hàng, chứ chưa dựa nhiều vào thị trường vốn như chứng khoán hay trái phiếu.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là hợp lý, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản"- Ảnh 3.

PV: Ngân hàng Nhà nước liên tục yêu cầu các ngân hàng thương mại triển khai các giải pháp nhằm ổn định lãi suất tiền gửi, hạ lãi suất cho vay. Ông đánh giá thế nào về động thái này và tác động tới hoạt động ngân hàng?


TS. Nguyễn Trí Hiếu:
Việc giảm lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân là hợp lý và cần thiết nếu muốn đạt mục tiêu tăng trưởng 8,3 – 8,5% trong năm nay. Khi tiếp cận được nguồn vốn rẻ, doanh nghiệp và người dân sẽ có điều kiện mở rộng đầu tư, tiêu dùng và sản xuất.

Tuy nhiên, chính sách này cũng tiềm ẩn một số giới hạn. Thứ nhất, nếu lãi suất huy động giảm quá thấp, người dân có thể rút tiền gửi để chuyển sang các kênh đầu tư khác như vàng, vốn đã tăng mạnh trong 7 tháng đầu năm 2025 hoặc chứng khoán. Điều này sẽ khiến ngân hàng gặp khó khăn trong huy động vốn, trong khi tăng trưởng tín dụng vẫn cao hơn tăng trưởng huy động, dẫn tới mất cân đối và hạn chế khả năng mở rộng cho vay.

Thứ hai, lãi suất thấp có thể khiến giá trị tiền đồng suy yếu so với USD, kéo tỷ giá USD/VND tăng. Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2025 tỷ giá đã tăng khoảng 2,9%, không còn dư địa để giảm lãi suất. Hệ quả là hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, gây áp lực lên lạm phát, đồng thời làm gia tăng nợ công (tính theo VND). Cuối cùng, dòng tiền giá rẻ còn có nguy cơ tạo ra bong bóng tài sản khi chảy vào các kênh như vàng, chứng khoán hoặc bất động sản với mục đích đầu cơ.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là hợp lý, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản"- Ảnh 4.

PV: Mới đây, Chính phủ đưa ra chủ trương thí điểm xóa bỏ room tín dụng cho các ngân hàng. Nếu chính sách này được áp dụng, theo ông, đây có phải là cú hích để ngành ngân hàng tiếp tục tăng tốc?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Room tín dụng được áp dụng từ hơn mười năm trước, khi lạm phát tăng rất cao. Ngân hàng Nhà nước lúc đó buộc phải giới hạn tăng trưởng tín dụng của từng ngân hàng để kiểm soát. Những năm 2009–2010, khi tôi mới về Việt Nam, có ngân hàng tăng trưởng tín dụng tới 100%, dẫn tới bùng phát lạm phát và nợ xấu. Ngay sau đó, Ngân hàng Nhà nước áp dụng room tín dụng để kiềm chế.

Hiện nay, tình trạng các ngân hàng tăng trưởng tín dụng quá mức như vậy hầu như không còn. Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều công cụ khác để kiểm soát tín dụng, trong khi lạm phát được duy trì ở mức 4-5%, tức là đang kiểm soát tốt. Thêm vào đó, vốn huy động của nhiều ngân hàng hiện thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng, nên các ngân hàng không có nguồn lực để tăng trưởng đột phá.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là hợp lý, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản"- Ảnh 5.

Theo tôi, đây là thời điểm thích hợp để bỏ room tín dụng, đưa ngành ngân hàng vận hành theo cơ chế thị trường: nhu cầu vay cao thì cho vay cao, nhu cầu thấp thì cho vay thấp, điều chỉnh theo cung, cầu. Room tín dụng giờ đã trở thành công cụ lỗi thời, thậm chí gây trở ngại cho hoạt động cho vay của các ngân hàng khi Ngân hàng Nhà nước phải liên tục điều chỉnh giữa năm vì hạn mức đặt ra từ đầu năm không còn phù hợp.

Tôi đã nhiều năm ủng hộ việc bỏ room tín dụng. Năm 2022, trong một cuộc họp với Ngân hàng Nhà nước và các chuyên gia khi tôi từ Mỹ về, tôi đã nhấn mạnh cần bỏ ngay. Dù hiện nay việc bỏ room tín dụng vẫn chưa được thực hiện, nhưng đây là quyết định hợp lý và đúng đắn.

Nếu muốn kiểm soát tín dụng, có thể áp dụng các tỷ lệ bao gồm vốn ngắn hạn cho vay trung – dài hạn tối đa 30%, tỷ lệ LDR (dư nợ cho vay trên huy động) không quá 85%, hệ số CAR (an toàn vốn) tối thiểu 8%. Cùng với thanh tra định kỳ, cơ quan quản lý hoàn toàn có thể nhận diện và giới hạn những ngân hàng tăng trưởng quá nhanh, hoặc hỗ trợ những ngân hàng tăng trưởng yếu. Ngoài ra, công cụ lãi suất cũng có thể sử dụng để điều chỉnh thị trường tiền tệ và hoạt động cho vay.

Tuy vậy, tôi cho rằng Ngân hàng Nhà nước vẫn nên giữ trần tín dụng toàn hệ thống (credit ceiling) ở mức 16%. Mỗi năm, cần công bố rõ mục tiêu tăng trưởng tín dụng của toàn quốc để các thành phần kinh tế cùng nắm, nhưng đối với từng ngân hàng riêng lẻ thì nên bỏ hạn mức.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là hợp lý, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản"- Ảnh 6.

PV: Theo Bảng vinh danh Private 100 năm 2025 do CafeF công bố, trong top 30 doanh nghiệp tư nhân nộp ngân sách lớn nhất có tới 10 ngân hàng tư nhân. Đây là tín hiệu cho thấy vai trò của nhóm ngân hàng tư nhân trong nền kinh tế đang gia tăng, thưa ông?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Con số này đúng là minh chứng cho thấy khối ngân hàng tư nhân ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, không chỉ ở khả năng tạo lợi nhuận mà còn ở mức đóng góp ngân sách đáng kể. Điều này phản ánh năng lực cạnh tranh, tính linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh với biến động thị trường của các ngân hàng tư nhân.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là hợp lý, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản"- Ảnh 7.

(Nguồn: Thống kê của CafeF)

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu với quốc tế, các ngân hàng tư nhân phải đóng vai trò là “đầu tàu” trong việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính đa dạng, hiện đại và phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường. Họ thường tiên phong ứng dụng công nghệ mới, mở rộng các dịch vụ ngân hàng số, tài chính tiêu dùng, thanh toán điện tử, đồng thời linh hoạt hơn trong chiến lược huy động và cho vay, qua đó hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động của doanh nghiệp và người dân.

Nếu so với các ngân hàng có vốn Nhà nước, các ngân hàng tư nhân thường đưa ra quyết định sát với cơ chế thị trường hơn, linh hoạt hơn trong việc đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp và cá nhân. Đây là lý do khiến ngân hàng tư nhân có nhiều lợi thế tăng trưởng nhanh, mạnh.

Ngược lại, các ngân hàng có vốn nhà nước, ngoài mục tiêu lợi nhuận, còn phải thực hiện các nhiệm vụ gắn với định hướng và chính sách phát triển chung, nên mức độ linh hoạt thường thấp hơn. Bên cạnh đó, một phần lớn lợi nhuận sau thuế phải gửi về Kho bạc, thay vì có thể giữ lại để tăng vốn chủ sở hữu, như các ngân hàng cổ phần không có vốn nhà nước có thể làm. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, trong nhiều thập kỷ qua, các ngân hàng có vốn nhà nước đã hoàn thành tốt vai trò thực thi chính sách kinh tế – xã hội.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là hợp lý, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản"- Ảnh 8.

Tuy nhiên, để nâng cao sức cạnh tranh và sự năng động của toàn ngành, theo tôi, cần tạo điều kiện để hệ thống ngân hàng vận hành theo cơ chế thị trường một cách thực chất hơn. Nhà nước nên từng bước giảm vai trò sở hữu vốn tại các ngân hàng có vốn nhà nước, đồng thời tăng cường vai trò giám sát, qua đó giúp các ngân hàng hoạt động linh hoạt như những thành phần kinh tế tư nhân. Điều này rất phù hợp với Nghị quyết 68 vừa ban hành, trong đó kinh tế tư nhân sẽ giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.

Về đóng góp ngân sách, các ngân hàng có vốn nhà nước hiện vẫn mang lại lợi ích rõ rệt khi lợi nhuận được phân bổ trực tiếp cho ngân sách. Nếu một phần lợi nhuận này được giữ lại để tái đầu tư, hỗ trợ khu vực tư nhân, vốn được xác định là động lực chiến lược theo Nghị quyết 68 thì có thể thúc đẩy khu vực này phát triển mạnh mẽ hơn, từ đó tạo thêm nguồn lực bền vững cho nền kinh tế.

PV: Nhìn về cuối 2025 và 2026, ông dự báo triển vọng và hướng đi ưu tiên của ngành ngân hàng sẽ ra sao?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Ngành ngân hàng đang bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhờ tác động của kinh tế số và kỹ thuật số. Tuy nhiên, so với thế giới, chúng ta vẫn ở vị trí phía sau. Dù đã ứng dụng công nghệ số và kinh tế số, nhưng mới dừng lại ở mức phục vụ khách hàng cá nhân, chủ yếu qua các ứng dụng và dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Trong khi đó, mảng ngân hàng cho doanh nghiệp (ngân hàng bán buôn) vẫn cần được đẩy mạnh số hóa hơn nữa. Việc sử dụng AI cũng ngày càng phát triển và ứng dụng trong các hoạt động của ngân hàng, đặc biệt trong lĩnhlãnh vực quản lý rủi ro.

Hiện nay, nhiều quyết định tín dụng vẫn phụ thuộc đáng kể vào con người, phương pháp thẩm định chưa hoàn toàn tự động hóa, chưa số hóa toàn diện. Đặc biệt, dữ liệu quốc gia cần được xây dựng hoàn chỉnh để từ đó hình thành các “benchmarks”, tức các tỷ lệ chuẩn mực tài chính cho từng ngành nghề trong nền kinh tế. Các chuẩn mực này có thể bao gồm: thanh khoản, hệ số đòn bẩy, lợi nhuận… và được chia theo từng phân khúc như thương mại, xây dựng, xuất nhập khẩu, bán buôn. Một hệ thống benchmarks cập nhật và toàn diện sẽ giúp các ngân hàng thẩm định mức độ rủi ro của khách hàng của mình khi so sánh với các benchmarks trong các ngành nghề.

Từ các chuẩn mực đó, ngân hàng sẽ có cơ sở để đưa ra quyết định tín dụng dựa trên dữ liệu lớn (big data). Ví dụ, trong ngành xuất nhập khẩu, hệ số rủi ro cần ở mức nào, tỷ lệ đòn bẩy ra sao, lợi nhuận bình quân là bao nhiêu… Khi xét duyệt hồ sơ, ngân hàng sẽ dựa vào các chuẩn mực này. Tuy nhiên, hiện chúng ta chưa có hệ thống chuẩn mực đầy đủ do việc thu thập dữ liệu còn hạn chế, và các ngân hàng cũng chưa áp dụng nền tảng số toàn diện, vẫn tồn tại nhiều khâu thủ công.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là hợp lý, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản"- Ảnh 9.

Ngoài ra, các ngân hàng tại Việt Nam vẫn đặt nặng tài sản bảo đảm như nguồn trả nợ chính. Trong khi đó, theo thông lệ quốc tế, nguồn trả nợ đầu tiên phải là dòng tiền và lợi nhuận của doanh nghiệp; tài sản bảo đảm chỉ là phương án dự phòng và là nguồn trả nợ thứ hai. Cho vay cần dựa vào khả năng vận động và quay vòng của dòng tiền trong doanh nghiệp để trả nợ. Nếu nguồn trả nợ thứ nhất không đủ hoặc tiềm ẩn rủi ro, khi đó mới tính đến việc sử dụng nguồn trả nợ thứ hai là tài sản bảo đảm. Thực tế, nhiều ngân hàng trong nước lại ưu tiên tài sản bảo đảm ngay từ đầu, đi ngược với thông lệ quốc tế.

Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!

CafeF Lists 2025 đánh dấu sự trở lại với 2 bảng vinh danh uy tín:

PRIVATE 100 – Top doanh nghiệp tư nhân nộp ngân sách từ 100 tỷ đồng trở lên

VNTAX 200 – Top doanh nghiệp có mức nộp ngân sách trong năm tài chính từ 200 tỷ đồng trở lên

Đây là danh sách được CafeF thu thập từ những nguồn công khai hoặc các số liệu có thể xác thực, phản ánh toàn bộ số thực nộp ngân sách của doanh nghiệp, bao gồm các khoản thuế, phí, các khoản phải nộp. Việc tổng hợp dữ liệu công khai, chính xác, minh bạch không chỉ ghi nhận đóng góp tài chính của các doanh nghiệp mà còn lan tỏa tinh thần trách nhiệm xã hội, khẳng định vị thế của doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Một số doanh nghiệp tiêu biểu trong danh sách năm 2024, thể hiện số thực nộp của năm tài chính 2023, có thể kể đến như Agribank; ACB; AIA; BIM Group; Coteccons; HDBank; LOF; Masan Group; MoMo; OCB; PNJ; Tasco; Tập đoàn DOJI; Tập đoàn Nam Long; TCBS; Techcombank; TPBank; Vingroup; VPBank; Vinamilk; VNG Group; VPS,…

Mai Linh

Hải An
TS. Nguyễn Trí Hiếu: “Giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là hợp lý, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bong bóng tài sản"- Ảnh 10.

spot_img

Mới cập nhật

Nổi bật